Nguyên tắc chung
Tổ chức, cá nhân trả thu nhập
thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công
có trách nhiệm khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân và quyết toán thuế thu nhập
cá nhân thay cho các cá nhân có uỷ quyền không phân biệt có phát sinh khấu trừ
thuế hay không phát sinh khấu trừ thuế. Trường hợp tổ chức, cá nhân không phát sinh trả
thu nhập thì không phải khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
Cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền
lương, tiền công, từ kinh doanh có trách nhiệm khai quyết toán thuế nếu có số thuế phải nộp thêm
hoặc có số thuế nộp thừa đề nghị hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ khai thuế tiếp
theo, trừ 3 trường hợp không bắt buộc phải quyết toán thuế như được trình bày
trong phần c.2 dưới đây.
Xem thêm: Hướng dẫn ủy quyền quyết toán thuế TNCN
Các trường hợp cá nhân không phải quyết toán
thuế:
+ Cá nhân có số thuế phải nộp
nhỏ hơn số thuế đã tạm nộp mà không có yêu cầu hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ
sau.
+ Cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên tại một đơn vị mà có
thêm thu nhập vãng lai ở các nơi khác bình quân tháng trong năm không quá 10
triệu đồng, đã được đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế tại nguồn theo tỷ lệ 10%
nếu không có yêu cầu thì không quyết toán thuế đối với phần thu nhập này.
+ Cá nhân được người sử dụng
lao động mua bảo hiểm nhân thọ (trừ bảo hiểm hưu trí tự nguyện), bảo hiểm không
bắt buộc khác có tích lũy về phí bảo hiểm mà người sử dụng lao động hoặc doanh
nghiệp bảo hiểm đã khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ 10% trên khoản tiền
phí bảo hiểm tương ứng với phần người sử dụng lao động theo hướng dẫn tại khoản
2 Điều 14 Thông tư số 92/2015/TT-BTC thì không phải quyết toán thuế đối với phần
thu nhập này.
+ Cá nhân, hộ kinh doanh có
thu nhập từ kinh doanh đã thực hiện nộp thuế theo phương pháp khoán.
Cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công ủy quyền cho tổ chức,
cá nhân trả thu nhập quyết toán thuế thay trong 3 trường hợp sau:
(i) Cá nhân chỉ có thu nhập từ
tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên tại một tổ chức,
cá nhân trả thu nhập và thực tế đang làm việc tại đó vào thời điểm uỷ quyền quyết
toán, kể cả trường hợp không làm việc đủ 12 tháng trong năm.
(ii) Cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên tại một tổ chức, cá
nhân trả thu nhập và thực tế đang làm việc tại đó vào thời điểm uỷ quyền quyết
toán, kể cả trường hợp không làm việc đủ 12
tháng trong năm, đồng thời có thu nhập vãng lai ở các nơi khác đã được
đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế 10% mà không có yêu cầu quyết toán đối với phần
thu nhập này.
(iii) Cá nhân là người lao động
được điều chuyển từ tổ chức cũ đến tổ chức mới trong trường hợp tổ chức cũ thực
hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp. Cuối năm người
lao động có ủy quyền quyết toán thuế thì tổ chức mới phải thu lại chứng từ khấu
trừ thuế TNCN do tổ chức cũ đã cấp cho người lao động (nếu có) để làm căn cứ tổng
hợp thu nhập, số thuế đã khấu trừ và quyết toán thuế thay cho người lao động.
Tổ chức, cá nhân trả thu nhập
chỉ thực hiện quyết toán thuế thay cho cá nhân đối với phần thu nhập từ tiền
lương, tiền công mà cá nhân nhận được từ tổ chức, cá nhân trả thu nhập. Trường
hợp tổ chức chi trả sau khi thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi
doanh nghiệp và thực hiện quyết toán thuế theo ủy quyền của người lao động được
điều chuyển từ tổ chức cũ sang thì tổ chức mới có trách nhiệm quyết toán thuế đối
với cả phần thu nhập do tổ chức cũ chi trả.
Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế
Thời hạn nộp tờ khai quyết
toán thuế TNCN chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm dương lịch.