CĂN CỨ TÍNH THUẾ TÀI NGUYÊN
Căn
cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế và
thuế suất. Từ những căn cứ đó, thuế tài nguyên phải nộp được xác định theo công
thức sau:
Thuế tài nguyên phải nộp
trong kỳ
|
=
|
Sản lượng tài nguyên tính
thuế
|
x
|
Giá tính thuế đơn vị tài
nguyên
|
x
|
Thuế suất thuế tài nguyên
|
Trường hợp được cơ quan nhà nước ấn định mức thuế tài
nguyên phải nộp trên một đơn vị tài nguyên khai thác thì số thuế tài nguyên phải nộp được xác định như
sau:
Thuế tài nguyên phải nộp
trong kỳ
|
=
|
Sản lượng tài nguyên tính
thuế
|
x
|
Mức thuế tài nguyên ấn
định trên một đơn vị tài nguyên khai thác
|
Sản lượng tài nguyên tính thuế
Sản
lượng tài nguyên tính thuế được xác định như sau:
(1) Đối với loại tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối
lượng thì
sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài
nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.
Trường
hợp tài nguyên khai thác thu được sản phẩm tài nguyên có nhiều
cấp độ, chất
lượng, giá trị thương mại khác nhau thì sản lượng tài
nguyên tính thuế được xác định theo sản lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất
lượng, giá trị thương mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có
sản lượng bán ra lớn nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính thuế cho toàn
bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong kỳ.
(2) Đối với tài nguyên không xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế của tài nguyên khai thác do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau và được
bán ra sau khi sàng tuyển, phân loại thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định như
sau:
a) Đối với tài nguyên sau khi sàng tuyển, phân loại thu được từng
chất riêng thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác
định theo số
lượng, trọng lượng hoặc khối lượng loại tài nguyên hoặc từng chất có trong tài nguyên thu
được sau khi sàng tuyển, phân loại .
Trường hợp đất, đá, phế thải, bã xít thu được
qua sàng tuyển mà bán ra thì phải nộp thuế tài nguyên đối với lượng tài nguyên
có trong phế thải, bã xít bán ra theo giá bán và thuế suất tương ứng của tài
nguyên có trong phế thải, bã xít.
b) Đối với tài nguyên khai thác có chứa nhiều
chất khác nhau (quặng đa kim) qua sàng, tuyển, phân loại mà không xác định được
sản lượng từng chất có trong tài nguyên khai thác (quặng) thì sản lượng tài
nguyên tính thuế được xác định đối với
từng chất căn cứ sản lượng tài
nguyên thực tế khai thác (quặng) và tỷ lệ của từng chất có trong tài nguyên. Tỷ
lệ từng chất có trong tài nguyên được xác định theo mẫu tài nguyên khai thác đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền kiểm định và phê duyệt. Trường hợp, tỷ lệ của từng chất có trong tài
nguyên khai thác thực tế khác với tỷ lệ từng chất có trong mẫu tài nguyên
(quặng) thì sản lượng tính thuế được xác định căn cứ kết quả kiểm định về tỷ
lệ từng chất có trong tài nguyên khai
thác thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
(3) Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà
phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì
sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định như
sau:
Đối với tài nguyên
khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ
trong nước hoặc xuất khẩu) thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng tài
nguyên khai thác được xác định bằng cách quy đổi từ sản
lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ để bán ra theo định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Định mức sử dụng
tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm do NNT kê khai căn cứ dự án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt, tiêu chuẩn công nghệ thiết kế để sản xuất sản phẩm
đang ứng dụng, trong đó:
- Trường hợp sản
phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên thì căn cứ định mức sử dụng tài nguyên tính
trên một đơn vị sản phẩm tài nguyên sản xuất bán ra.
- Trường hợp sản
phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp thì căn định mức sử dụng tài nguyên tính
trên một đơn vị sản phẩm công nghiệp sản xuất bán ra.
Việc xác định sản
phẩm bán ra sau quá trình chế biến là sản phẩm công nghiệp hay không phải sản
phẩm công nghiệp do Bộ quản lý nhà
nước chuyên ngành thực hiện theo thẩm
quyền.
(4) Đối với nước thiên
nhiên dùng cho sản xuất thuỷ điện thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng
điện của cơ sở sản xuất điện bán cho bên mua điện theo hợp đồng mua bán điện hoặc
sản lượng điện giao nhận trong trường hợp không có hợp đồng mua bán điện được
xác định theo hệ thống đo đếm đạt tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam, có
xác nhận của bên mua, bên bán hoặc bên giao, bên nhận.
(5) Đối với nước khoáng
thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, nước thiên
nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh thì
sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định bằng mét khối (m3) hoặc
lít (l) theo hệ thống đo đếm đạt tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam.
Người nộp thuế phải lắp đặt thiết bị đo đếm
sản lượng nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên khai
thác để làm căn cứ tính thuế. Thiết bị lắp đặt phải có giấy kiểm định của cơ
quan quản lý đo lường chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam và thông báo lần đầu với
cơ quan thuế kèm theo hồ sơ khai thuế tài nguyên trong kỳ khai thuế gần nhất kể
từ ngày lắp đặt xong thiết bị. Trường hợp do điều kiện khách quan không thể lắp
đặt được thiết bị đo đếm sản lượng nước khai thác sử dụng và không trực tiếp
xác định được sản lượng tính thuế thì thực hiện khoán sản lượng tài nguyên khai
thác theo kỳ tính thuế. Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan có
liên quan ở địa phương xác định sản lượng tài nguyên khai thác được khoán để
tính thuế
tài nguyên theo quy định.
(6) Trường hợp trên địa bàn có doanh nghiệp
khai thác, xuất khẩu sản phẩm tài nguyên,
cơ quan thuế thực hiện xác định sản lượng sản phẩm tài nguyên thực tế
xuất khẩu trên Tờ khai Hải quan theo cơ chế trao đổi thông tin tại Quyết định
số 574 QĐ/BTC ngày 30/3/2015 của Bộ Tài chính để quy đổi ra sản lượng sản phẩm
tài nguyên sản xuất và thực hiện đối chiếu với sản lượng tài nguyên trên Tờ
khai quyết toán thuế tài nguyên của doanh nghiệp. Trường hợp phát sinh chênh
lệch sản lượng tài nguyên tính thuế mà doanh nghiệp đã kê khai, nộp thuế có dấu
hiệu vi phạm pháp luật thì cơ quan thuế áp dụng các biện pháp kiểm tra, thanh
tra phù hợp theo quy định của Luật Quản lý thuế để tính, thu đủ thuế tài nguyên
và xử lý vi phạm theo quy định.
Sản lượng tài nguyên khai thác tăng thêm qua
kiểm tra, thanh tra phải chịu thuế tài
nguyên theo mức thuế suất và giá tính thuế tài nguyên quy định tại thời điểm phát sinh sản lượng
tài nguyên khai thác. Trường hợp không xác định được sản lượng tài nguyên khai
thác tăng thêm phát sinh thuộc kỳ kê khai thuế cụ thể nào thì áp dụng mức thuế
suất và giá tính thuế tài nguyên do pháp luật quy định tại thời điểm kết thúc
năm khai thác tài nguyên.
Xem thêm: Giá tính thuế tài nguyên được xác định như thế nào?