Tư vấn miễn phí | Email: contact@ngheketoan.edu.vn

Vai trò của thuế, kế toán thuế


1. Khái quát về ngân sách nhà nước.

Từ trước đến nay, các Nhà nước thường có ba cách để động viên một phần thu nhập xã hội cho nguồn ngân sách Nhà nước: quyên góp, vay và dùng quyền lực để buộc dân phải đóng góp. Hai hình thức đầu phụ thuộc vào tính tự nguyện và tự giác của dân chúng, riêng hình thức dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Nhà nước – đó là Thuế, lệ phí.

Ngân sách Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau:

* Ngân sách Nhà nước là công cụ huy động huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

* Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: vai trò được thể hiện trên 2 mặt sau:

- Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu nền kinh tế mới, khích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.

- Thứ hai, ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, chống lạm phát.

* Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội. 

2. Phân tích vai trò của thuế.

2.1.  Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào NSNN

       Đây là vai trò quan trọng nhất của thuế đối với nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu ngân sách nhà nước

    Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN

-   Thuế chiếm một tỷ trọng rất lớn trong thu NSNN.

Nhà nước có thể thu ngân sách từ nhiều nguồn khác nhau nhưng không có nguồn thu nào ổn định và bền vững bằng thuế. Vì mang tính không hoàn trả trực tiếp nên nhà nước có thể yên tâm dùng thuế làm công cụ chủ yếu để thu ngân sách, phục vụ các chi tiêu của quốc gia mà không phải lo lắng về nghĩa vụ bồi hoàn hay trả nợ. Hàng năm, thuế luôn đóng góp khoảng trên 90% vào tổng thu ngân sách nhà nước.

Với việc đóng góp một tỷ trọng cao và ngày càng tăng lên trong tổng thu ngân sách nhà nước, thuế đang ngày càng chứng tỏ vai trò chủ đạo của mình trong việc huy động tài chính công phục vụ chi tiêu cho cả quốc gia.

-   Nhà nước huy động thuế vào ngân sách nhà nước bằng cả hình thức thu trực tiếp lẫn gián tiếp

Nhà nước sử dụng công cụ thuế để thu ngân sách khá triệt để bằng cả hai hình thức là thu trực tiếp (thuế trực thu) và thu gián tiếp (thuế gián thu).

Dù là bằng hình thức trực tiếp hay gián tiếp, mọi đối tượng thực hiện các hoạt động, giao dịch để có được thu nhập, thu được lợi ích đều phải nộp thuế vào ngân sách Nhà nước. Phương pháp này giúp Nhà nước quản lý rất hiệu quả công tác thu ngân sách của mình, hạn chế tối đa được thất thu ngân sách.

Thuế là nguồn động viên GDP vào NSNN

Thuế là nguồn động viên GDP vào ngân sách nhà nước để chính phủ có tiền thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu công, nhằm thực hiện việc phân phối lại tổng sản phẩm cho xã hội. Hiện nay, thuế chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

2.2.  Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội

  Thứ nhất : Thông qua pháp lệnh về thuế, Nhà nước chủ động tác động đến cung - cầu của nền kinh tế góp phần phân bổ lại nguồn lực nhằm thực hiện tốt chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

* Đối với sản xuất:

 Nhà nước sử dụng thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích hoặc hạn chế các ngành sản xuất mong muốn.

       Thực tế, đối với các ngành sản xuất yếu kém trong nước, khả năng cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu kém cả về giá cả và chất lượng, nếu muốn duy trì và phát huy các ngành này, buộc nhà nước phải có chính sách bảo hộ nhất định để hạn chế được tính cạnh tranh gay gắt từ các mặt hàng nhập khẩu cùng loại, và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tăng sản xuất.

     Nhà nước có thể điều tiết, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thay thế nguyên liệu nhập khẩu bằng nguyên liệu sản xuất sẵn có trong nước theo mức độ tỷ lệ nội địa hoá, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, đặc biệt trong tiến trình hội nhập hiện nay, làm cho hàng hoá trong nước có sức cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.

     + Thông qua thuế nhập khẩu, chính sách thuế sẽ tác động đến giá cả hàng hóa trên thị trường, là công cụ hữu hiệu để hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực đầu tư kém hiệu quả sang lĩnh vực đầu tư có hiệu quả hơn. Đối với những hàng hoá là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu… phục vụ sản xuất, việc đánh thuế với thuế suất thấp có tác dụng làm giảm chi phí “đầu vào” của sản xuất, giúp doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều kiện đổi mới công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi đánh thuế hàng nhập cao, giá hàng nhập đắt sẽ khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Với điều kiện đó, hàng sản xuất trong nước có thế cạnh tranh hơn,  giá thành hạ so với hàng nhập khẩu.

  Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế do thực hiện các cam kết khu vực và quốc tế. Hơn nữa nếu các quốc gia quá dựa vào vai trò bảo hộ từ thuế nhập khẩu, không những làm cho chính sách thuế nhập khẩu ảnh hưởng không lợi đến chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước trong bối cảnh mới, mà còn làm cho nền sản xuất trong nước trì trệ, kém phát triển, nhân dân thường xuyên phải dùng hàng hoá với giá đắt và mẫu mã không được đổi mới theo xu thế phát triển của khu vực và thế giới

Ví dụ:  Điển hình là ngành sản xuất ô tô. Theo cam kết WTO, tất cả các loại ôtô chở người  đều quy về một mức thuế suất NK là 47%. Trong khi theo cam kết ASEAN/AFTA, ôtô chở người dưới 9 chỗ trong khu vực này NK vào VN sẽ áp mức thuế suất 0% từ năm 2018.

Do đó, hiện nay Việt nam vẫn đang duy trì mức thuế suất NK ô tô rất cao, nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô nội địa.

+ Khuyến khích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh một số ngành nghề

Với việc thiết kế và xây dựng hệ thống chính sách thuế có phân biệt theo ngành, vùng khác nhau, Nhà nước có thể thúc đẩy phát triển nhiều ngành nghề kinh tế mũi nhọn, then chốt và các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa..

  Chính sách thuế phân biệt theo thuế suất cao, thấp khác nhau đối với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, đối với từng sản phẩm, dịch vụ, tuỳ thuộc vào sự cần thiết của sản xuất và đời sống xã hội, tự nó đã có tác dụng điều chỉnh việc phân bổ lại nguồn vốn đầu tư trong xã hội.

- Việc áp dụng các hình thức ưu đãi (thuế suất, thời gian miễn giảm thuế…) đối với hàng hoá, dịch vụ phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thường sẽ làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ đó giảm xuống. Khi giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm thì lượng cầu sẽ tăng lên. Để đáp ứng cho sự gia tăng về cầu hàng hoá, các doanh nghiệp  sẽ mở rộng quy mô sản xuất nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn.

 - Ngược lại, khi áp dụng thuế suất cao, giá tăng sẽ có giảm sút về cầu, thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tìm lĩnh vực đầu tư mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục đích sản xuất mặt hàng khác có thể tạo lợi nhuận nhiều hơn.

+   Với chính sách ưu đãi qua thuế suất, thời gian miễn giảm của thuế TNDN, Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài vào những ngành, những lĩnh vực và những vùng cần khuyến khích đầu tư.

Chẳng hạn:  áp dụng mức thuế suất thấp và miễn giảm hấp dẫn đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư như các cơ sở sản xuất mới thành lập; đầu tư ở miền núi, hải đảo, các vùng có nhiều khó khăn

* Đối với tiêu dùng

       Để hạn chế hay khuyến khích tiêu dùng, Nhà nước  xây dựng một biểu thuế phù hợp, tác động trực tiếp đến tâm lý tiêu dùng của người dân.

Ví dụ 1:

Đối với mặt hàng hạn chế tiêu dùng là thuốc lá, Nhà nước tiến hành tăng thuế suất từ 30% lên 50% và dự kiến tăng kịch sàn theo quy định của WTO là 100%.

Các nghiên cứu cho thấy, khi giá thuốc lá tăng 10% sẽ làm giảm ít nhất 5% lượng thuốc lá tiêu thụ.

Ví dụ 2: Hay việc quy định các mức thuế suất đối với thuế thu nhập cá nhân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiêu dùng. Thuế tăng cao, đồng nghĩa với việc thu nhập giảm, người dân buộc phải có những điều chỉnh trong chi tiêu thích hợp để hài hòa ngân sách của chính mình.

Thuế có vai trò phục vụ yêu cầu tài trợ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế

     Vai trò tích cực của thuế với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn có thể được xem xét ở góc độ tài trợ. Tài trợ từ thuế được thực hiện bằng phương pháp: trực tiếp hay gián tiếp.

       Một là, thực hiện các thuế suất đặc biệt, cho miễn giảm thuế nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế có thêm thu nhập để giải quyết yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

       Hai là, qua nguồn thu tăng nhiều từ thuế, Nhà nước có thêm vốn ban đầu cho các cơ sở, địa phương, vùng lãnh thổ có khó khăn trong việc thực hiện các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc tài trợ cho các trường hợp dạy nghề để người lao động có trình độ thấp đáp ứng được yêu cầu phục vụ các ngành cần trình độ kỹ thuật công nghệ cao được hình thành trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, hỗ trợ lưu thông nguyên, nhiên, vật liệu, tiêu thụ hàng hoá hay xây dựng các công trình thuỷ lợi ở những vùng thường xảy ra hạn hán nhằm nâng cao được năng suất lao động, bảo đảm được an toàn lương thực trong hoàn cảnh diện tích đất sản xuất nông nghiệp càng bị thu hẹp trong quá trình đô thị hoá.

  Thứ hai: Thuế là công cụ điều chỉnh giá cả thị trường và kiềm chế lạm phát

       Trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng, suy thoái… và kinh tế trong nước vẫn đang trong giai đoạn phát triền, thị trường luôn có những biến động khó lường. Để kiểm soát được những biến động này, Nhà nước phải sử dụng kết hợp rất nhiều biện pháp và chính sách đồng thời. Trong đó, có sự tham gia của chính sách thuế.

    Sự tăng giá liên tục của thị trường gây ra tình trạng lạm phát khó kiểm soát. Đối với các mặt hàng có sự tăng giá liên tục Nhà nước buộc phải có các chính sách thuế nhằm hỗ trợ điều chỉnh giảm giá.

2.3. Góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội

  Thứ nhất, hệ thống pháp luật về thuế đã được áp dụng thống nhất cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư

       Sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về thuế  tại Việt Nam được thể hiện rõ từ quá trình ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật. Cụ thể đó là mọi nguồn thu từ thuế, lệ phí  đều do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặt ra bằng luật và pháp lệnh và được áp dụng thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thêm vào đó, tính thống nhất còn được thể hiện qua việc hệ thống thuế ở nước ta không chia thành các sắc thuế quốc gia và các sắc thuế địa phương như ở một số nước.

  Thứ hai, chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có cùng một điều kiện hoạt động

      Để đảm bảo sự bình đẳng, công bằng về cạnh tranh, lợi ích cũng như sự phát triển hài hòa giữa các chủ thể trong xã hội thì mức thuế suất được sử dụng để động viên là như nhau đối với các chủ thể có cùng một điều kiện hoạt động, và đi cùng với điều kiện hoạt động khác nhau là các mức thuế suất khác nhau. Minh họa cho đặc điểm này, có thể lấy vị dụ về mức thuế suất theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2016, Theo đó, thuế suất chung áp dụng cho các doanh nghiệp là 20%, tuy nhiên sẽ có những ưu đãi thuế nhất định đối với tất cả các doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn

Ví dụ:

Doanh nghiệp thành lập mới tại địa bàn tỉnh Sơn La (thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn) hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ vận tải. Doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp do đáp ứng điều kiện về địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

  Thứ ba, Thuế góp phần giảm bớt khoảng cách giàu nghèo thông qua việc điều tiết thu nhập

    Trong nền kinh tế thị trường , thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác biệt về thu nhập của mỗi người. Chính sự khác biệt ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình đẳng trong xã hội. Và thuế là công cụ chính được nhà nước sử dụng để điều hòa vĩ mô thu nhập xã hội, thông qua cả hai hình thức thuế trực thu và thuế gián thu.

 +  Đối với thuế trực thu

Đây là loại thuế được nhà nước sử dụng để động viên và điều tiết trực tiếp thu nhập của các chủ thể trong xã hội, Trong đó điển hình là thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp.

-   Thuế thu nhập cá nhân với biểu thuế luỹ tiến từng phần đã giúp đảm bảo công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo thông qua việc điều tiết mạnh thu nhập của những người có thu nhập cao và điều tiết ở mức độ hợp lý đối với các cá nhân có thu nhập trung bình hoặc thấp.  

Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào đó khi thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Thêm vào đó còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá nhân mang gánh nặng xã hội.

Tại Việt Nam biểu thuế suất thuế TNCN như sau:

Bậc thuế

Phần thu nhập tính thuế/ năm

Phần thu nhập tính thuế/tháng

Thuế suất (%)

1

Đến 60

Đến 5

5

2

Trên 60 đến 120

Trên 5 đến 10

10

3

Trên 120 đến 216

Trên 10 đến 18

15

4

Trên 216 đến 384

Trên 18 đến 32

20

5

Trên 384 đến 624

Trên 32 đến 52

25

6

Trên 624 đến 960

Trên 52 đến 80

30

7

Trên 960

Trên 80

35

        
                  Biểu thuế luỹ tiến từng phần (điều 22- Luật thuế thu nhập cá nhân 2007)

    Với nước ta, Luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ yêu cầu đảm bảo công bằng.Vì như đã biết tính chất công bằng trong một chính sách thuế liên quan đến cả công bằng dọc và công bằng ngang. Công bằng dọc tức là người có thu nhập cao hơn phải đóng góp nhiều hơn, trong khi công bằng ngang phải đảm bảo mức đóng góp như nhau cho những người có thu nhập ngang bằng nhau. Và có một thực tế ở nước ta hiện nay đó là không phải người nào giàu nhất cũng đang đóng thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người nghèo lại phải gánh những khoản thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của họ. Do đó, việc cải cách cơ chế tiền lương theo hướng minh bạch, chẳng hạn như giảm các khoản phụ cấp không qua lương, sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả cho công cuộc cải cách thuế hướng đến mục tiêu công bằng hơn và hiệu quả hơn.

-   Thuế thu nhập doanh nghiệp  cũng là công cụ quan trọng để thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.  Trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh bình đằng. Theo đó, doanh nghiệp nào với lực lượng lao động có tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ chiếm ưu thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao;  ngược lại các doanh nghiệp với năng lực tài chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập. Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nước được công bằng, hợp lý.

        +  Đối với thuế gián thu

Có thể kể đến các loại thuế  như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu..

Thuế gián thu điều tiết thu nhập thực tế có khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch vụ cao cấp, đánh thuế thấp với các hàng hóa dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống của dân cư.

              Ví dụ:

 Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt hàng ô tô – đây là loại hàng hóa mà chỉ những người có thu nhập cao mới mua được. Mặt hàng này phải chịu thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất rất cao. Trong khi đó lương thực, thực phẩm – những mặt hàng thiết yếu cho đời sống người dân thường chỉ phải chịu mức thuế thấp hoặc không đánh thuế.

  Thứ tư,  Nguồn thuế thu được, một phần được sử dụng để phân phối lại cho các đối tượng chính sách, khó khăn trong xã hội.

      Thuế là nguồn thu chủ yếu để hình thành nên ngân sách nhà nước và nhà nước sẽ sử dụng ngân sách để trang chải cho các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện vai trò và chức năng của mình. Trong các khoản chi của nhà nước thì khoản chi liên quan đến chi phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, chi các chương trình mục tiêu để hỗ trợ cho những người có thu nhập thấp, những người thuộc diện chính sách, đối tượng khó khăn… luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi ngân sách của nhà nước. Và đặc biệt đối với Việt Nam- đất nước  đang phấn đấu thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa- thì các khoản chi tiêu này là một trong số các ưu tiên hàng đầu trong quá trình phân bổ ngân sách của nhà nước.

3. Vai Trò của kế toán thuế

KTT có trách nhiệm bảo vệ và giải trình thành công mọi kết quả kê khai về thuế trước cơ quan thuế.


Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết:

Tổng quan về thuế

Luật thuế Giá trị gia tăng 

Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp

- Luật thuế thu nhập cá nhân 

Các vấn đề về hóa đơn



Gửi thông tin tư vấn

Họ tên(*)
Số điện thoại(*)
Email(*)
Địa chỉ
Yêu cầu tư vấn